Hiệu Quả Tài Chính: Thước Đo Thực Sự Của Một Chiếc Cầu
Đây là cách mà chúng tôi biến Hyphen thành chiếc cầu có hiệu quả kinh tế cao nhất thị trường.
Giới thiệu
Khối lượng giao dịch và giá trị khóa (TVL) là những chỉ số hàng đầu khi chúng ta nhìn vào công dụng của cầu, ở đó TVL cao chính là dấu hiệu của sự phát triển.
Tuy nhiên, giờ đây là đã hiểu rằng ngoài khối lượng giao dịch, một thước đo chính xác hơn về các sử dụng cầu và tối ưu tài sản chính là sự hiệu quả về kinh tế, chứ không phải TVL.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu những cách mà chúng tôi đang xây dựng Hyphen để nó trở thành chiếc cầu hiệu quả nhất về mặt kinh tế trên thị trường trong lúc chúng tôi tiếp tục mở rộng về mặt khối lượng giao dịch.
Tại Sao Lại Là Hiệu Quả Tài Chính?
Nhiều chain và token được thêm vào Hyphen
Việc thay đổi sang một mô hình hiệu quả về tài chính có nghĩa là thanh khoản có thể được dùng tối ưu ở những nơi được cần, do đó, bằng cách dịch chuyển thanh khoản đúng lúc giữa các chain để đáp ứng bất kỳ nhu cầu chuyển mạng nào, chúng tôi có thể nhanh chóng hỗ trợ hàng loạt các chain và token. Việc này sẽ giúp cải thiệu khả năng xuyên chuỗi của Hyphen, là nguyên tố cốt lõi để tăng tính đa dụng cho cả người dùng bình thường và người rành về crypto.
Lãi LP cao hơn
Khối lượng giao dịch thường là nguyên tố chính ảnh hưởng đến doanh thu ròng của một chiếc cầu, vậy nên một chiếc có nhiều lợi ích tài chính hơn, liên tục hơn, sẽ mang đến nhiều phần thưởng béo bở hơn là một chiếc cầu có TVL cao.
Nói cách khác, phần thưởng tăng lên, số lượng người thấp xuống = APY cao hơn.
Ví dụ: Một chiếc cầu với 50% TVL được sử dụng hàng ngày có APY là 20% (phí 0,1% LP), trong khi đó một chiếc cầu chỉ sử dụng 15% TVL chỉ có APY dưới 6%.
Giảm nguy cơ
Sẽ luôn có nguy cơ kèm theo khi giao tiếp với hợp đồng thông minh. Việc giảm TVL thông qua sự hiệu quả tăng lên, đã được chứng minh là có thể giảm đi nguy cơ bằng cách giữ một lượng nhỏ giá trị khóa được lưu trữ trong một hợp đồng. Một chiếc cầu có hiệu quả về kinh tế có thể có khối lượng giao dịch tương đương nhưng lại ít rủi ro hơn so với chiếc cầu có hiệu quả kinh tế thấp hơn.
Thách Thức: Quỹ Thanh Khoản Không Cân Bằng
Hầu hết cầu cho đến ngày nay đang được tối ưu về tốc độ và bảo mật, trong đó TVL được xem là thước đo của sự thành công bên cạnh khối lượng giao dịch. Đa số xuất phát từ việc những người phát triển cầu lại giải quyết vấn đề về tốc độ, TVL là điểm nhấn, không phải sự hiệu quả trong việc quản lý thanh khoản.
Chúng ta sẽ không nói về những khía cạnh kỹ thuật của việc tái cân bằng quỹ thanh khoản và cơ sở hạ tầng của node, bạn có thể xem thêm những thông tin đó từ CTO của chúng tôi tại đây.
Thứ mà chúng ta sẽ bàn luận ở đây là một quá trình cài đặt công bằng, dựa trên nhu cầu một phía từ việc pool bị mất cân bằng, với các pool đích có nhu cầu cao nhưng thanh khoản lại thấp và những pool nguồn thông dụng thì thanh khoản lại cao. Trong những trường hợp này, các giao dịch trên cầu sẽ thấy bại trừ khi thanh khoản được tái cân bằng.
Một cách đặc thù, cơ sở hạ tầng cho node thực việc hoạt động tái cân bằng này, phải chịu hàng tá những căng thẳng leo thang mà không được đáp trả xứng đáng. Kết quả là, các pool không tự cân bằng và tệ hơn nữa, các giao dịch thất bại, giảm mạnh sức chứa và tốc độ để có thể tích hợp cách chain mới cho Hyphen.
Và rồi cuối năm nay, chúng tôi đã tự hỏi, rằng sẽ ra sao nếu điều này có thể thay đổi?
Giải pháp: Phí động Hyphen
Việc đạt được sự hiệu quả tài chính bắt đầu từ việc đảm bảo quỹ thanh khoản phản ánh rõ rệt giữa chain nguồn và địch dưới một mô hình phi tập trung. Giải pháp của chúng tôi là mang đến một mô hình phí động, trong đó các quỹ thanh khoản được cân bằng thông qua các giao dịch khuyến khích dựa trên chain nguồn với thanh khoản cao cơn so với phần còn lại, dẫn đến việc một khoản phí được sinh ra từ cả thanh khoản của chain nguồn và chain đích đang có.
Bạn muốn trực quan sinh động?
Dưới đây là công thức:
$$ F(L(e), L(r)) = \frac {F(max) * F(e) *L(e)^d} {F(e)*L(e)^d + (F(max) — F(e))*L(r)^d} $$
trong đó,
L(e)$ ⇒ Thanh khoản ở trạng thái cân bằng. L(e) == SL
$L(r)$ ⇒ Thanh khoản còn lại sau khi giao dịch hoàn thành. $L(r) = (L — transfer Amount)$
$F(max)$ ⇒ Phần trăm phí tối đa đã khấu trừ. F(max) = 10% (Hằng số)
$F(e)$ ⇒ Phí đã trừ ở trạng thái cân bằng. F(e) = 0.1% (Hằng số)
$d$ ⇒ Yếu tố độ sâu. Giá trị quyết định đường cong sẽ sâu hơn bao nhiêu
Đơn giản hơn:
Chuyển A) Quỹ thanh khoản cao >>> quỹ thanh khoản thấp = phí cao (dịch chuyển các pool ra khỏi điểm cân bằng, là 0)
Chuyển B) Quỹ thanh khoản thấp >>> quỹ thanh khoản cao = phí thấp (dịch chuyển các pool lại gần điểm cân bằng bằng cách hạ pool)
Ví dụ:
Giả sử bạn thực hiện chuyển tiền giữa hai tài khoản ngân hàng dưới mô hình phí động. Tài khoản chính của bạn (chain nguồn) có một tài khoản USD (quỹ thanh khoản) vào khoản 10k USD và bạn gửi 8k USD để chuyển sang tài khoản khác (chain đích) với một số dư (quỹ) khoản 5k USD (thấp hơn thanh khoản của nguồn). Để làm vậy, bạn sẽ bị tính phí 10 USD, bởi bạn đang gửi tiền vào quỹ thanh khoản cao hơn (10k USD), do đó làm tăng sự mất cân bằng giữa nguồn vs đích và dịch chuyển xa khỏi đường cân bằng (khác biệt = 0).
Trường hợp ngược lại vẫn đúng, trong đó nếu bạn nạp 8k USD vào một tài khoản có 5k USD, thay vì một tài khoản cao hơn ở mức 10k USD, thì phí của bạn có thể là 3 USD bởi bạn đã tăng thanh khoản ở quỹ nguồn (tài khoản), quỹ thấp nhất, do đó mang chúng đến gần vùng cân bằng hơn. Và do đó phần thưởng và cơ chế mà Hyphen mang lại có thể tái tạo quỹ dưới mô hình phí động.
Cơ hội giao dịch kiếm chênh lệch
Trong mô hình mới, chúng tôi sẽ đăng tải một số bot mã nguồn mã có khả năng tái cân bằng các quỹ của Hyphen và thu thập phần thưởng từ việc đó. Một con bot có thể được thực thi bởi bất kỳ ai và chỉ yêu cầu cung cấp tài sản thích hợp cho pool để tái cân bằng.
Khi bot vắng mặt, người dùng Hyphen có thể đóng vai trò người giao dịch kiếm chênh lệch và kiếm phần thưởng một cách đơn giản bằng cách chuyền tiền từ chain này sang chain khác.
Ví dụ:
Để mô tả về cơ hội giao dịch kiếm chênh lệnh trong một cầu thanh khoản, giả sử chain A có pool 100 ETH, cùng lúc đó chain B có 100 ETH.
Trong bối cảnh này, một giao dịch crosschain có thể tiêu hao một khoản phí phẳng là 0.1%. Phí này sẽ là phí cân bằng tài chính và chuyền toàn bộ cho LP. Theo thời gian, người dùng tham khoả hoặc nhu cầu sử dụng các tài sản mất cân bằng xuyên suốt các chain có thể thay đổi sự ngang bằng của các pool ETH trong ví dụ của chúng tôi.
Giả sử một yield farm thông dụng trên chain B khiến cho nhu cầu rút ETH từ chain B tăng mạnh. Khi giao dịch người dùng chuyển từ chain A sang B được hoàn thành, thanh khoản trên chain B trở nên khan hiếm. Nguồn lực khan khiếm làm tăng giá thành, và người dùng phải chịu phí tăng lên trên 0.1% để rút ETH từ chain B. Việc tăng phí chuyển lên trên 0.1% được xem như phần thưởng. Sự mất cân bằng giữa các pool ETH càng lớn thì phần thưởng càn gia tăng, phần thưởng khuyến khích giao dịch chênh lệch càng nhiều.
Bằng cách đặt ETH vào pool bị cạn kiệt và rút khỏi một pool đang có nhiều, người giao dịch chênh lệch có thể nắm được phí giao dịch vượt trên mức cân bằng (ví dụ như 0.1%).
Kết Luận
Việc xây dựng thêm nhiều dApp và giao thức mang tính hiệu quả là việc cần thiết để chào đón người dùng truyền thống đến với web3. Nếu chúng ta muốn tiến hóa và mở rộng hơn so với Web3, chúng ta cần phải theo kịp nó trước tiên và cải thiện sự hiệu quả về kinh tế để có thể tạo ra một chiếc cầu toàn diện cho người dùng, và đó sẽ là một bước đi lớn theo đúng hướng.